Lịch sử Đà_Nẵng

Dân số Đà Nẵng
NămDân số
15002.500
16005.000
170010.000
180012.500
190030.000

Thời Sa Huỳnh và Chăm Pa

Thành phố Đà Nẵng nằm trong vùng đất xứ Quảng, nơi các cư dân cổ thuộc Văn hóa Sa Huỳnh đã định cư từ hàng nghìn năm trước. Đồng bằng xứ Quảng đã dựng lên một nền văn minh lúa nướcdâu tằm nổi tiếng. Người Sa Huỳnh không chỉ là những cư dân nông nghiệp mà còn đi biển và có hoạt động giao thương bằng đường biển khá phát triển. Tại di tích Vườn Đình Khuê Bắc (phường Hòa Hải, quận Ngũ Hành Sơn), các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật được những vết tích liên quan đến nơi ở và nơi chôn cất của cư dân thuộc thời kỳ Tiền Sa Huỳnh, cách đây khoảng 3.000 năm và một số hiện vật ở những lớp đất phía trên thuộc thời kỳ Chăm Pa sớm, cách đây gần 2.000 năm.[43][44]

Khi nhà nước Chăm Pa ra đời, vùng đất Đà Nẵng thuộc về tiểu quốc Amaravati. Tại tiểu quốc này đã có ít nhất hai vương triều là Lâm ẤpIndrapura tồn tại. Những dấu tích của thời kỳ Chăm Pa còn biểu hiện khá đậm nét qua các di tích từ miếu thờ tín ngưỡng ở Đình Dương Lâm (xã Hòa Phong) chỉ thờ ngẫu tượng Linga - Yony quy mô nhỏ bé đến các phế tích có quy mô lớn như lũy đất Thành Lồi, phế tích của các tháp Chăm như Tháp Quá Giáng, Tháp Xuân Dương và Tháp Phong Lệ. Trên địa bàn chùa ở Ngũ Hành Sơn còn lưu giữ một số hiện vật Chăm Pa như bệ thờ, mảnh bệ thờ, mảnh góc bệ thờ được khắc tạc với các đề tài như tượng, voi, sư tử, Drappla, hoa dây uốn xoắn,... thuộc phong cách nghệ thuật Đồng Dương thế kỷ IX. Ngoài ra còn có các giếng cổ Chăm Pa phân bố rải rác ở nhiều địa phương.[45][46] Cuộc khai quật di tích Chăm ở làng Phong Lệ (quận Cẩm Lệ) năm 2012 với việc phát hiện nền tháp Chăm có kích thước lớn nhất từ trước đến nay đã đưa đến giả thuyết: "rất có thể hơn 1.000 năm trước, vùng đất này là một trung tâm kinh tế, đô thị sầm uất hoặc là nơi giao thương qua lại".[47][48]

Thời Đại Việt

Trong nửa sau của thế kỷ thứ X, các vua của vương triều Indrapura đã xung đột với Đại Việt.[49] Năm 982, ba sứ thần mà Lê Hoàn (người sáng lập ra nhà Tiền Lê) gửi đến Chăm Pa đã bị bắt giữ. Lê Hoàn đã quyết định mở một cuộc tấn công vào vương quốc Indrapura và giết chết vua Chăm Parameshvaravarman I. Như một kết cục của sự thất bại, người Chăm cuối cùng đã bỏ rơi Indrapura vào khoảng năm 1000.[50]

Vào năm 1306, thông qua cuộc hôn nhân của Vua Jayasimhavarman III (Chế Mân) với Công chúa Huyền Trân bằng việc nhượng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần, thì các làng xóm của người Việt bắt đầu được hình thành. Tháng Giêng năm Đinh Mùi (1307), Vua Trần Anh Tông sai đổi tên châu Ô và châu Lý thành châu Thuậnchâu Hóa.[51] Đà Nẵng từ đây là phần đất thuộc châu Hóa,[52] và từ sau 1446 thì Đà Nẵng thuộc địa phận của huyện Điện Bàn, phủ Triệu Phong, thừa tuyên Thuận Hóa.[52] Sau khi sáp nhập vào Đại Việt, vùng Đà Nẵng trở vào vẫn là miền biên viễn, luôn bị quấy nhiễu và cướp phá. Vào năm 1470, Lê Thánh Tông đánh bại quân Chiêm Thành và mở rộng biên giới Đại Việt đến mũi Nạy (giữa Phú YênKhánh Hòa ngày nay) thì vùng đất này mới được bình ổn và bắt đầu có những cuộc khai phá mở mang. Những cư dân Việt đến sinh sống ở vùng này đã tiếp nhận và cải biến những yếu tố của văn hóa Chăm Pa để hòa nhập vào văn hóa Việt.[53]

Bức họa Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ của Chaya Shinroku, có thuyết cho rằng hình ảnh cửa biển trong hình chính là cửa Đà Nẵng.[54]

Thời các Chúa Nguyễn, vùng đất này đã được khai phá và trở nên trù phú thịnh vượng; các thương nhân cùng tàu thuyền nước ngoài thường xuyên ra vào mua bán, trao đổi hàng hóa.[55] Giữa thế kỷ XVI, khi Hội An là trung tâm buôn bán sầm uất ở phía nam thì Đà Nẵng nằm ở vị trí tiền cảng với vai trò trung chuyển hàng hóa, tu sửa tàu thuyền. Đầu thế kỷ XVIII, vị trí tiền cảng của Đà Nẵng dần dần trở thành thương cảng thay thế cho Hội An, nhất là khi kỹ thuật đóng tàu ở châu Âu phát triển; những loại tàu thuyền lớn, đáy sâu có thể ra vào vịnh Đà Nẵng dễ dàng.[56]

Thời kỳ các Chúa Nguyễn cũng đánh dấu sự thành lập của Hải đội Hoàng Sa với nhiệm vụ ra đóng ở Quần đảo Hoàng Sa, mỗi năm 8 tháng để khai thác các nguồn lợi: đánh cá, thâu lượm những tài nguyên của đảo và những hóa vật do lấy được từ những tàu đắm đem về nộp cho triều đình.[57][58] Quá trình hoạt động của Hải đội Hoàng Sa cũng là quá trình xác lập và thực thi chủ quyền Việt Nam trên Quần đảo Hoàng Sa (và Trường Sa) kéo dài từ đầu thế kỷ XVII.[59]

Đà Nẵng trong thời Trịnh-Nguyễn phân tranh và thời Tây Sơn trở thành vùng tranh chấp dữ dội và đã chứng kiến những trận đánh quyết liệt của quan quân nhà Nguyễn trong cuộc tấn công vào cửa Đà Nẵng và Đại Chiêm. Năm 1797, quân Nguyễn Ánh đem đại binh tiến đánh Đà Nẵng.[60]

Thời nhà Nguyễn

Cửa biển Đà Nẵng và Quần đảo Hoàng Sa thể hiện trên "Đại Nam nhất thống toàn đồ"(1834)Bản đồ Đà Nẵng năm 1859

Với vị trí chiến lược quan trọng có ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của kinh đô Phú Xuân, Đà Nẵng là một quân cảng và một thương cảng quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Ngay sau khi thành lập, vương triều Nguyễn đã chú trọng xây dựng tại đây một hệ thống quản lý và phòng thủ cảng biển đặc biệt. Năm 1813, triều đình sai Nguyễn Văn Thành lập pháo đài Điện Hải và đồn An Hải nằm hai bên tả hữu sông Hàn để quan sát ngoài biển và phòng thủ Đà Nẵng.[61] Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam được chuyển từ Dinh Chiêm (gần Hội An) ra đại đồn La Qua (Vĩnh Điện).[62] Đặc biệt, Gia Long quy định việc đón tiếp các đoàn sứ ngoại quốc đến quan hệ với vương triều nhất định phải vào cửa biển Đà Nẵng mà không được cập bến tại bất kỳ một cửa biển nào khác.[63]

Năm 1835 (Minh Mạng thứ 15) đồn đổi tên là thành Điện Hải.[64]

Năm 1835, khi Vua Minh Mạng có dụ: "...tàu Tây đậu tại cửa Hàn, còn các cửa biển khác không được vào, phép nước rất nghiêm, chẳng nên làm trái... Từ nay về sau, người Tàu phải đi tàu buôn nước Tàu, mới cho vào cửa biển, người Tây phải đi tàu nước Tây vào cửa Hàn thông thương, không được ghé vào các cửa biển khác..."[65] thì Đà Nẵng trở thành hải cảng chính thức và duy nhất thực thi chính sách ngoại giao của nhà Nguyễn với các nước đến quan hệ qua đường biển. Vua Thiệu Trị cũng đặc biệt quan tâm đến việc an ninh cảng biển tại Đà Nẵng và đưa ra những quy định chặt chẽ quản lý người phương Tây đến buôn bán tại đây.[63]

Nhà Nguyễn tiếp tục thực thi nhiều chính sách khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa. Năm 1816, Vua Gia Long chính thức chiếm hữu đảo, ra lệnh cắm cờ trên đảo và đo thủy trình.[66] Năm 1835, Vua Minh Mạng cho xây miếu, đặt bia đá, đóng cọc, và trồng cây. Đội Hoàng Sa được trao nhiều nhiệm vụ: khai thác, tuần tiễu, thu thuế dân trên đảo và nhiệm vụ biên phòng bảo vệ quần đảo. Hải đội này tiếp tục hoạt động cho đến khi người Pháp vào Đông Dương.

Ngay từ giai đoạn 1843-1857 thì mối quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Pháp đã trở nên nóng bỏng.[67] Tháng 3 năm 1847, Augustin de Lapierre chỉ huy tàu Gloire cập bến Đà Nẵng, trình thư cho nhà Nguyễn nhưng bị từ chối. Sang ngày 15 tháng 4 năm 1847, tàu Pháp đụng độ với bốn tàu của triều đình Huế[68] và đánh tan quân triều đình chỉ sau hai giờ giao tranh.[69] Giữa tháng 9 năm 1856, tàu Catinat do Lelieur chỉ huy ghé Đà Nẵng, trình quốc thư nhưng tiếp tục bị nhà Nguyễn từ chối. Ngày 28 tháng 9, phía Pháp cho tàu Catinat nã súng vào các pháo đài bảo vệ Đà Nẵng và cho quân đổ bộ đóng đinh vô hiệu hóa nhiều khẩu thần công của Việt Nam.[70] Tính chung suốt từ 1843 đến 1857, Pháp đã sáu lần gửi chiến hạm đến Đà Nẵng.[71]

Thời Pháp thuộc

Quân Pháp tấn công Đà Nẵng năm 1858Bản đồ thành phố Đà Nẵng (Tourane) năm 1908 (trừ bán đảo Sơn Trà không được thể hiện trong bản đồ).

Năm 1858, cuộc xâm lược của Pháp tại Việt Nam khởi đầu bằng cuộc tấn công vào Đà Nẵng.[72] Ngày 25 tháng 8 năm 1883, triều đình Huế buộc phải ký với Pháp Hiệp ước Harmand. Theo điều 6 và 7 của Hiệp ước này, ngoài việc yêu cầu mở cửa Đà Nẵng để thông thương còn quy định rằng Pháp sẽ được phép lập các khu nhượng địa ở đây.[73]

Ngày 17 tháng 8 năm 1888, Tổng thống Pháp ký sắc lệnh thành lập ba thành phố ở Việt Nam là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng.[74] Ngày 3 tháng 10 năm 1888, Vua Đồng Khánh buộc phải ký một đạo dụ gồm 3 khoản quy định rõ "...Đà Nẵng được chính phủ Đại Nam kiến lập thành nhượng địa Pháp và nhượng trọn quyền cho chính phủ Pháp, và chính phủ Đại Nam từ bỏ mọi quyền hành trên lãnh thổ đó". Theo phụ đính của đạo dụ này, năm xã của huyện Hòa Vang gồm Hải Châu, Phước Ninh, Thạch Thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây nằm bên tả ngạn sông Hàn được cắt giao cho Pháp để lập "nhượng địa" Tourane với diện tích 10.000 ha.[75] Ngày 24 tháng 5 năm 1889, Toàn quyền Đông Dương Étienne Richaud ra nghị định thành lập thành phố Đà Nẵng thuộc tỉnh Quảng Nam.[1] Đà Nẵng là thành phố loại 2, tương tự như thành phố Chợ Lớn thành lập trước đó.[76] Đơn vị hành chính này chịu sự cai quản trực tiếp của Toàn quyền Đông Dương thay vì triều đình Huế[77]. Đứng đầu thành phố là một viên Đốc lý do Khâm sứ đề nghị và Toàn quyền bổ nhiệm.[76] Ngày 15 tháng 1 năm 1901, dưới sức ép của Pháp, Vua Thành Thái buộc phải ký một đạo dụ nới rộng nhượng địa Đà Nẵng thêm 14 xã, cụ thể là thêm 8 xã thuộc huyện Hòa Vang bên tả ngạn sông Hàn và 6 xã thuộc huyện Diên Phước bên hữu ngạn sông Hàn.[78] Ngày 19 tháng 9 năm 1905, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định tách Đà Nẵng khỏi tỉnh Quảng Nam để trở thành một đơn vị hành chính độc lập gồm 19 xã.[79] Như vậy vào đầu thế kỷ XX, thành phố Tourane/Đà Nẵng đã vươn về phía tây và tây bắc, còn phía đông thì đã vượt sang hữu ngạn sông Hàn chiếm trọn bán đảo Sơn Trà.[73][78][Ghi chú 2]

Đầu thế kỷ XX, Tourane được Pháp xây dựng trở thành một đô thị theo kiểu Tây phương. Cơ sở hạ tầng xã hội, kỹ thuật sản xuất được đầu tư. Sản xuất nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, chế biến hàng xuất khẩu, sửa chữa tàu thuyền, kinh doanh dịch vụ được hình thành và phát triển; cùng với Hải Phòng và Sài Gòn, Tourane trở thành trung tâm thương mại quan trọng.[77] Cảng Đà Nẵng đã tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động từ giai đoạn 1933-1935. Sân bay dân dụng cũng được nhà cầm quyền sớm xây dựng vào năm 1926.[80] Hầu hết các công ty lớn nhất hoạt động ở Đông Dương đều hiện diện ở Đà Nẵng.[81] Dân số thành phố tăng lên nhanh chóng; năm 1936, Đà Nẵng có 25.000 người; năm 1945 có khoảng 30.000 người.[82]

Trong thời gian này, người Pháp vẫn tiếp tục quản lý Quần đảo Hoàng Sa. Ngày 8 tháng 3 năm 1925, Toàn quyền Đông Dương tuyên bố Quần đảo Hoàng Sa (và Quần đảo Trường Sa) là lãnh thổ của Pháp.[83] Từ năm 1925, Viện Hải dương học và Nghề cá Nha Trang đã thực hiện các cuộc khảo sát ở Hoàng Sa. Năm 1938, Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và tiến hành dựng bia chủ quyền, hải đăng, trạm vô tuyến, trạm khí tượng trên đảo Hoàng Sa cùng một trạm khí tượng nữa trên đảo Phú Lâm.[84] Ngày 15 tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương Jules Brévié thành lập đại lý hành chính ở Quần đảo Hoàng Sa.[85] Tháng 6 năm 1938, một đơn vị lính bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú Hoàng Sa.[84]

Thời Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa

Năm 1950, Pháp trao trả Đà Nẵng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Từ tháng 10 năm 1955, chính quyền Ngô Đình Diệm tiến hành phân chia lại địa giới hành chính. Lúc này, Đà Nẵng trực thuộc tỉnh Quảng Nam. Đến ngày 31 tháng 7 năm 1962, tỉnh Quảng Nam được tách thành hai tỉnh Quảng Nam và Quảng Tín. Đà Nẵng trực thuộc trung ương.[86] Vào những năm 1954-1955, dân số Đà Nẵng có khoảng hơn 50.000 người.[86]

Dân số Đà Nẵng
NămDân số
190030.000
195450.000
1964150.000
1967228.674[87]
1972457.979[88]
1975500.000

Trong khi đó cuộc Chiến tranh Việt Nam ngày càng gia tăng. Tháng 3 năm 1965 các đơn vị thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng và thiết lập ở đây một căn cứ quân sự hỗn hợp lớn. Sân bay Đà Nẵng được coi là một trong những sân bay "tấp nập" nhất trong chiến tranh.[89] Năm 1967, Đà Nẵng được chính quyền Việt Nam Cộng hòa ấn định trực thuộc trung ương và xác định mục tiêu xây dựng Đà Nẵng thành trung tâm chính trị, quân sự, văn hóa cho vùng I và II chiến thuật. Mỹ cho xây dựng ở Đà Nẵng các căn cứ quân sự và kết cấu hạ tầng phục vụ cho mục đích quân sự như sân bay, cảng, kho bãi, cơ sở thông tin liên lạc...[56]

Năm 1973, khi quân Mỹ rút khỏi Việt Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã cho phân chia lại địa giới hành chính Đà Nẵng, giữ nguyên 3 quận như cũ, chỉ sáp nhập 28 khu phố bên dưới cấp quận thành 19 phường. Thị xã Đà Nẵng được đặt dưới quyền điều hành của Hội đồng thị xã gồm 12 ủy viên và do một Thị trưởng đứng đầu.[90] Do chính sách đô thị hoá, dân số Đà Nẵng ngày càng tăng nhanh. Dân số thành phố từ mức 148.599 người vào năm 1964 tăng lên tới gần 500.000 người vào năm 1975.

Dưới thời Việt Nam Cộng hòa, Đà Nẵng là đô thị lớn thứ hai miền Nam.[91] Tính đến trước sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, cảng Đà Nẵng là nơi cung cấp hàng hóa cho cả vùng I chiến thuật, đồng thời là trung tâm tiếp tế cho gần 3 triệu dân miền Nam.[92] Toàn thị xã khi đó có hàng chục công ty kinh doanh xuất nhập khẩu. Người dân Đà Nẵng chủ yếu sống bằng nghề buôn bán.[93]

Sau Hiệp định Genève, Quần đảo Hoàng Sa được giao cho chính quyền Quốc gia Việt Nam quản lý. Ngày 13 tháng 7 năm 1961, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Ngô Đình Diệm ký sắc lệnh 174-NV quy thuộc quần đảo này vào tỉnh Quảng Nam và thiết lập tại đó một đơn vị hành chính lấy tên là Xã Định Hải thuộc Quận Hòa Vang.[94] Sau khi đã kiểm soát được nhóm đảo An Vĩnh từ trước, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chiếm toàn bộ Quần đảo Hoàng Sa vào ngày 19 tháng 1 năm 1974 khi quân đội của họ tấn công quân đồn trú Việt Nam Cộng hòa và chiếm nhóm đảo Lưỡi Liềm ở phía tây.[95]

Từ 1975 đến nay

Tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam-Đà Nẵng

Sau khi hòa bình lập lại, Đà Nẵng là thành phố thuộc tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, gồm 28 phường: An Hải Bắc, An Hải Đông, An Hải Tây, An Khê, Bắc Mỹ An, Bình Hiên, Bình Thuận, Chính Gián, Hải Châu I, Hải Châu II, Hòa Cường, Hòa Thuận, Khuê Trung, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Nam Dương, Phước Mỹ, Phước Ninh, Tam Thuận, Tân Chính, Thạc Gián, Thạch Thang, Thanh Bình, Thanh Lộc Đán, Thọ Quang, Thuận Phước, Vĩnh Trung, Xuân Hà. Ngày 5 tháng 5 năm 1990, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 2.

Trở thành Thành phố trực thuộc Trung ương

Vấn đề đưa Đà Nẵng trở thành thành phố trực thuộc Trung ương được đề cập đến bắt đầu từ Đại hội lần thứ IV của Đảng bộ thành phố Đà Nẵng diễn ra vào ngày 8 tháng 5 năm 1989, trong đó Đại hội thống nhất kiến nghị với Trung ương và Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng cần có một cơ chế hợp lý cho thành phố Đà Nẵng, cho thành phố Đà Nẵng được trực thuộc trung ương, nếu chưa đủ điều kiện thì cho Đà Nẵng được trở thành Đặc khu kinh tế Đà Nẵng.

Sau đó, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XV diễn ra từ ngày 16 tháng 10 năm 1991 đến ngày 19 tháng 10 năm 1991, đặc biệt Đại hội đã chính thức đưa ra bàn bạc, thảo luận đề nghị Trung ương cho tách Đà Nẵng thành thành phố trực thuộc Trung ương, nếu chưa cho tách thì cho quy chế riêng để xây dựng Đà Nẵng thành một Đặc khu kinh tế của duyên hải Miền Trung hoặc Khu kinh tế mở nhắm tạo điều kiện cho Đà Nẵng phát triển mạnh mẽ, đồng thời để Trung ương quan tâm nhiều hơn đến Quảng Nam.

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng lần thứ XVI diễn ra từ ngày 23 tháng 4 năm 1996 đến ngày 27 tháng 4 năm 1996, đã kiến nghị chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam. Ngày 8 tháng 10 năm 1996, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng Mai Thúc Lân nhận được Công điện 75/CCHC/TW của Trung ương có nêu rõ ngày 7 tháng 10 năm 1996, Bộ Chính trị đã có Thông báo số 06/TB-TW về việc nhất trí chia tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai đơn vị hành chính: Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương và tỉnh Quảng Nam. Tỉnh ủy phải chỉ đạo hoàn tất thủ tục để kịp trình Quốc hội quyết định trong cuộc họp giữa tháng 10 này. Ngày 9 tháng 10 năm 1996, Thường trực Tỉnh ủy đã có cuộc họp liên tịch của Thường trực Hội đồng nhân dân, Thường trực Ủy ban nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh, Đoàn đại biểu Quốc hội của tỉnh để bàn việc triển khai Công điện của Trung ương.

Ngày 11 tháng 10 năm 1996, Hội nghị Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng đã nghe Ủy ban nhân dân tỉnh trình bày phương án được xem hợp lý nhất. Ngày 12 tháng 10 năm 1996, Hội đồng nhân dân tỉnh đã họp để thảo luận và biểu quyết phương án chia tách. Hội đồng nhân dân tỉnh đã thống nhất chọn phương án Thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương được hình thành từ ba đơn vị hành chính cấp huyện của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng gồm thành phố tỉnh lỵ "Đà Nẵng ba khu vực", huyện Hòa Vang và huyện đảo Hoàng Sa đồng thời nhất trí lấy thị xã Tam Kỳ làm tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam.

Ngày 6 tháng 11 năm 1996, tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX đã thông qua nghị quyết cho phép tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng tách thành tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương. Về địa giới hành chính, thành phố Đà Nẵng mới bao gồm thành phố Đà Nẵng trước đây cộng với huyện Hòa Vanghuyện đảo Hoàng Sa. Trên thực tế thì quần đảo Hoàng Sa đang nằm dưới sự kiểm soát của Trung Quốc và Ủy ban Nhân dân huyện đảo Hoàng Sa trực thuộc Sở Nội vụ thành phố Đà Nẵng. Ngày 1 tháng 1 năm 1997, Đà Nẵng chính thức trở thành thành phố trực thuộc trung ương.[96] Ngày 23 tháng 1 năm 1997, 5 quận Hải Châu, Liên Chiểu, Ngũ Hành Sơn, Sơn Trà, Thanh Khê được thành lập.[97] Ngày 15 tháng 7 năm 2003, Đà Nẵng được công nhận là đô thị loại 1[98] cùng với Hải Phòng. Năm 2005, một phần huyện Hòa Vang (các xã Hòa Thọ, Hòa Phát và Hòa Xuân) và quận Hải Châu (phường Khuê Trung) được tách ra và thành lập nên quận mới là quận Cẩm Lệ.[99]

Để chuẩn bị cho một cuộc bứt phá của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, những năm qua, Đà Nẵng đã nỗ lực cải thiện hình ảnh và vị thế của mình. Từ năm 2001, thành phố đề ra kế hoạch thực hiện chương trình "Thành phố 5 không": không hộ đói, không có người mù chữ, không có người lang thang xin ăn, không có người nghiện ma túy trong cộng đồng và không có cướp của, giết người.[100] Sau kết quả ban đầu của chương trình "Thành phố 5 không", Đà Nẵng lại tiếp tục với chương trình "3 có" - có nhà ở, có việc làm và có nếp sống văn hóa, văn minh đô thị.[101] Các chương trình này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đã tạo thành mục tiêu để chính quyền thành phố phấn đấu và tạo được niềm tin đối với người dân. Sau khi trở thành thành phố trực thuộc trung ương, Đà Nẵng luôn đạt tốc độ tăng trưởng GDP cao hơn bình quân chung của Việt Nam.

Tượng đài 2 tháng 9

Với tư cách kế thừa quyền sở hữu các quần đảo từ các chính quyền trước, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã liên tục đưa ra những tuyên bố khẳng định chủ quyền của mình đối với Quần đảo Hoàng Sa. Năm 1994, Quốc hội Việt Nam phê chuẩn Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển năm 1982 và khẳng định lại chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa.[102] Ngày 6 tháng 11 năm 1996, Quốc hội Việt Nam tách huyện Hoàng Sa khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và sáp nhập vào thành phố Đà Nẵng. Huyện Hoàng Sa được xác định có diện tích 305 km², với địa giới bao gồm một quần đảo có tên gọi là Quần đảo Hoàng Sa nằm cách đất liền khoảng 170 hải lý (315 km). Cuối tháng 6 năm 2012, Quốc hội Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam. Điều 1 đã khẳng định lại tuyên bố chủ quyền của Việt Nam đối với Quần đảo Hoàng Sa.[103] Ngày 4 tháng 7 năm 2012, kỳ họp thứ 4 Hội đồng Nhân dân thành phố Đà Nẵng khóa VIII nhiệm kỳ 2011-2016 đã thông qua Nghị quyết phản đối Trung Quốc thành lập thành phố Tam Sa.[104]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Đà_Nẵng http://14.176.231.50/lib/index.php/ph%C3%A1t-tri%E... http://www.hnszw.org.cn/data/news/2009/06/43638/ http://www.antaranews.com/berita/331364/marzuki-hu... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/149343 http://www.danangportvn.com/Default.aspx?PageId=25... http://www.danangportvn.com/Default.aspx?PageId=64 http://danangtheatre.com/Default.aspx?FunctionID=2... http://www.doisongphapluat.com/tin-tuc/su-kien-han... http://www.erct.com/4-ChiaSe/SuuTam/Dia_danh_Da_Na... http://books.google.com/books?id=0FKCuR0i0SMC&lpg=...